H.O.
Lấy Vợ
Ngày đó chị là cô hàng xóm nhỏ nhất trong đám con
nít hơn chục đứa do anh cầm đầu những
năm sáu mươi.
Sau
tết Mậu Thân anh đi lính, hành quân bốn vùng chiến
thuật, lần đầu bị thương ở chiến
trường về, gia đình vội cưới vợ
cho anh, sau đó mỗi lần về phép là một lần
«gieo giống», các con thay nhau ra đời và mang tên địa
danh anh đã đi qua. Cô hàng xóm ngày xưa âm thầm dõi theo anh, hụt hẫng, mơ mộng làm
người yêu của lính, chưa đủ tuổi để
nói lên nỗi lòng, anh đã cưới vợ mất rồi.
Tàn cuộc chiến, anh đi tù, vợ anh chạy
chợ nuôi con, mỗi lần chị đi thăm anh, cô
hàng xóm góp thêm túi cá khô, ký đường ... phụ chị
nuôi anh trên rừng. Anh ra tù, mang vợ con đi Mỹ,
thế là «đôi ngã chia ly» dù giữa hai người
chưa có lời hẹn ước nào, chị đành giã từ
mối tình câm. Má hỏi chị, chịu lấy
chồng chưa, chị bùi ngùi nói, người ta đi mất
tiêu rồi, lính còn đâu mà lấy.
Ba mươi năm sau anh quay về xóm cũ, nhà ba má anh vẫn
ở sát nhà chị, gõ cửa hàng xóm, thấy chị ra mở
cổng, anh ngạc nhiên ú ớ : bé Xíu,
ơ Xíu vẫn ở đây.
Chị cười sung sướng: đại ca Liêm, anh về
hồi nào vậy ?
Mời anh vào nhà, Xíu kể cho đại ca
nghe những ngày xa cách, anh cưới vợ chị buồn
lắm, nhưng ít ra cũng còn thấy anh thỉnh thoảng
trở về xóm cũ, ngày anh đi Mỹ, coi như hết
sạch sành sanh, còn ai để mong đợi.
Má nói mãi chị mới lấy chồng, sinh được
hai đứa con, chồng chị làm «kinh tế mở cửa»
nên tung cửa đi luôn với đào
nhí, chị tiếp tục nghề gõ đầu trẻ nuôi
các con đến bây giờ.
Anh bùi ngùi tâm sự, ngày xưa anh cũng
thương Xíu nhưng không dám nói, Xíu nhỏ hơn anh gần
mười tuổi sợ má anh, má em chửi. Anh định chờ Xíu lớn một chút, binh
nghiệp vững vàng rồi cưới cũng kịp, ai
dè má anh bắt cưới vợ, chiến cuộc
đưa đẩy hai đứa mình xa nhau.
Chị mân mê tách trà nóng, nói nhỏ như chỉ
cho riêng mình, chúng mình không duyên nợ, biết nhau chừng
đó cũng đủ rồi. Anh nắm lấy tay
chị ân cần, chưa chắc, chuyện tụi mình
chưa bắt đầu làm sao kết thúc, tuy giữa hai
đứa mình chưa có gì, nhưng bây giờ tìm hiểu
nhau cũng chưa muộn, chị thảng thốt, thế
vợ con anh đâu !
Anh châm điếu thuốc, kể «chuyện
tình buồn» của anh và vợ, cuộc sống bên Mỹ
đã thay đổi tất cả.
Hồi mới qua, anh xung phong đi làm «assembly» và đưa
đón các con đến trường, để vợ
đi học, chị lấy xong cái bằng kế toán xin
vào sở Mỹ làm đến bây giờ. Thật ra vợ
chồng anh chưa hề yêu nhau, lấy nhau do gia đình sắp
xếp, thời chiến vợ anh yên phận vợ hiền,
qua đây vợ anh có cơ hội giao tế rộng rãi
hơn, trong khi anh còn hoài niệm một thời vùng vẫy
hét ra lửa. Anh nhận tội «chồng chúa» nhưng
chưa bao giờ «bắt vợ làm tôi», chỉ là chúa tể
rừng xanh thôi, quen kiểu nhà binh, xếp ra lệnh, vợ
con trở xuống phải tuân theo, giời ạ, bên trời
tây sao anh không chịu hiểu, đàn ông có xuống gía chút
đỉnh, anh phải giảm bớt «cường độ»
chúa tể sơn lâm.
Từ ngày vợ anh lên chức xếp kế toán trong sở,
anh cảm thấy cái chức «xếp má bầy trẻ» của
anh bị cái chức kia lấn át một cách vô hình và xung
đột từ đó xuất phát như hỏa châu
rơi những đêm giao tranh ngoài chiến trường.
Dạo đó anh vẫn giữ tính oai phong, gan lỳ không
nhân nhượng «đối phương», dân nhà binh thứ
thiệt, có thua cuộc cũng hiên ngang ra đi chứ không
thèm níu kéo, lùi bước, hào khí thời chiến, cái máu
đại ca thời niên thiếu vẫn như cũ. Hình
như anh chưa quen cuộc sống lứa đôi thời
bình, giữa hai người lại thiếu một chuyện
tình lãng mạn, với cuộc sống mới hối hả
hội nhập vào xã hội Mỹ khiến hai vợ chồng
càng để lộ những cách biệt đáng ngại.
Vợ anh biết anh vẫn sống trong hào
quang thời xưa, anh chưa chấp nhận «đại
bàng gãy cánh», cuộc sống nội tâm của anh gắn liền
với quá khứ khiến anh rơi vào cơn trầm cảm.
Có lần chị bàn đến chuyện này mong anh thức
tỉnh và giải tỏa mọi hiểu lầm, không ngờ
kết quả tệ hơn, anh vin vào
chuyện chị đi làm có tiền nên coi rẻ anh, hai
người giận nhau cả tháng.
Đôi khi ngồi bên nhau, kỷ niệm xưa không chen nhau
ùa về để hâm nóng chuyện tình chưa lãng mạng
của họ, có nhắc lại cũng chỉ vài bức
thư từ chiến trường anh gửi về, vài mẫu
chuyện gian truân chị lặn lội đường xa
đi thăm nuôi anh, cái nghĩa vợ chồng đến
trước vì tình yêu chưa nở rộ.
Giờ nghĩ lại đã quá muộn, gía những lúc chị
trở về từ sở, tay ôm chồng hồ sơ, tay
xách túi thức ăn, anh phải bay vào bếp phụ chị,
ngược lại anh bỗng thấy bị «mất gía»
trước tập hồ sơ khó ưa kia nên bỏ lên lầu.
Không thấy anh phụ một tay, chị đâm bực, lên
giọng «xếp sở» cằn nhằn, gian bếp rung rinh
như máy bay đang đi qua vùng trũng, seat bell làm gì có
để buộc chặt tự ái của hai vợ chồng
đang bay lợn lờ đụng trần nhà bếp.
Chị Xíu nghe chuyện của anh phát rợn, nhưng phải
phục tính cương trực nhà lính của anh, dám làm dám
chịu, ít có đấng mày râu nào dám nhận lỗi của
mình sau một cuộc chia tay, đa số đều lên án,
đàn bà đòi hỏi bình quyền quá đáng, họ từ
bẹ sườn bọn đàn ông chúng tôi mà ra,
đương nhiên họ phải kém chúng tôi rồi.
Hoàn cảnh của Xíu cũng không khá hơn anh, lấy chồng
sinh con để không phải mang tiếng gái ế, chị
nghĩ sống bên nhau rồi sẽ yêu, nói chồng chị
không yêu chị là không đúng, nhưng yêu say đắm thì
chưa, hoàn cảnh đưa đẩy chồng chị
phải giao tế làm ăn. Đàn ông không háo sắc, không
đam mê, không sa ngã ... đâu phải là một tay chơi
đáng nể, đã vui chơi mà phải tỉnh táo không lẫn
lộn «cơm với phở» còn gì cuộc chơi, không biết
cái triết lý «bia bọt» này do ai tung ra làm cánh đàn ông bên
nhà «sùi bọt mép». Chồng chị đâu phải là người
đàn ông tuyệt hảo, chị cũng chỉ là người
phụ nữ bình thường, đôi bên chẳng ai đủ
bản lãnh để cứu lấy mái ấm của họ,
vì thế chuyện tình đôi ta đến đây là hết,
chỉ tội mấy đứa bé ngơ ngác giữa cuộc
phân tranh của cha mẹ.
Từ ngày rời Sài Gòn, trở lại Mỹ anh vui và yêu
đời hơn, họp đám bạn cũ lên
chương trình «cưới vợ miền xa», kẻ khen,
người cản bảo coi chừng cái «rờ mọt»
bên đó nặng lắm, anh hiên ngang trả lời, nếu
quá sức, moa cho nổ mìn đứt luôn. Đám ủng hộ
lên tiếng, tụi nó thử sức toa, dân nhà binh tụi
mình đâu có ngán ai, tuy nhiên cũng nên cân nhắc, chỉ ngại
cách sống bên đó không hạp với bên này thì mệt
đó, lỡ bưng người ta qua không dể vứt ra
đường đâu. Mấy người bạn làm anh bần
thần, lòng anh đã vững như kiềng ba chân, tự
nhiên lời vào tiếng ra khiến anh «suy tư bên bờ vắng»,
ai chứ Xíu anh biết từ nhỏ, nhưng chuyện tan
vỡ gia đình Xíu, hư thực ra sao anh không rỏ chỉ
nghe em than như thế, chưa chắc lỗi do anh chồng
gây ra.
Bên Sàigòn má chị Xíu đâm lo, bà thở dài, coi chừng thằng
Liêm có máu «đại ca» quyết định bốc đồng,
con nhớ hồi trước nó dẫn cả đám tụi
con đi xinê đến chiều tối mới về làm cả
xóm nhốn nháo tưởng chúng mày bị bắt cóc, bị
đòn một trận, ra tết tiếp tục dẫn cả
đám đi chùa, ăn cơm chùa... đến tối mờ
tối mịt, cái xóm này sợ nó luôn.
Chị cười thầm, đấy chị
yêu anh cũng vì cái tính bốc đồng đáng yêu đó,
hình như anh chồng cũ của chị thiếu cái nét
phong lưu của đại ca Liêm. Chồng chị
nhẹ dạ dễ sa ngã, lại ngã vào tay người
đẹp ai mà cưỡng lại được, lỗi
do chị quá tự tin, nghĩ mình là hậu phương vững
chắc nên không sợ «tróc gốc», cái vai vợ hiền của
chị chưa đủ tiêu chuẩn níu chân anh chồng vui
chơi triền miên, vì cách mạng là ngày hội mà.
HO về Sàigòn cưới vợ, có người trề môi,
tưởng gì lấy «bà gìa», đồng đội bênh vực,
hồi trước nó từng lái «bà gìa» (máy bay), bây giờ
cưới là phải rồi, có giọng phản biện,
phải cái gì, dại chưa từng thấy, hay muốn
chơi ngông lấy tiếng. Mặc thiên hạ bình luận,
anh biết Xíu, chỉ còn một chút «bí mật» anh chưa
giải mã, Xíu làm răng mà chồng bỏ, sự đổ
vỡ nào cũng đến từ hai phía, nhưng anh cao
thượng nên «cho qua» luôn.
«Cưới vừa xong là anh đi», về bên này anh sửa
lại căn town house, sơn trắng nội thất, gắn
rèm màu bordeaux,
sắm chiếc giường đôi, dựng dressing ... tất
cả đều do bàn tay con gái của anh «phù phép». Con nhỏ
còn nhớ cô Xíu và ủng hộ bố cưới vợ, vợ
cũ của anh cũng không phản đối, đàng nào
cô dâu cũng là hàng xóm cũ, anh báo cho Xíu biết bên này OK mối
tình muộn của hai người, hú vía chị Xíu lọt
mắt xanh bên chồng.
Vợ cũ của anh đã tái gía từ lâu, thấy anh hẩm
hiu tội nghiệp, chị không ích kỷ, tìm đuợc hạnh
phúc mới, chị không quên người chồng cũ, nhờ
anh mà chị mới thành công ngày hôm nay, anh đã quá hào hiệp
với chị, chỉ thiếu một chút kiên nhẫn mà ra
nông nỗi. Sau khi leo lên ghế xếp, chị định
khuyến khích anh trở lại trường, chuyện
chưa đến đâu, anh mặc cảm thua kém vợ rồi
sinh ra bất hòa đến đổ vỡ, gía lúc đó chị
nhịn nhục, gía lúc đó cả hai đừng tự
ái, háo thắng quá đáng. Chị mừng biết anh cưới
Xíu, cô hàng xóm tốt bụng, đàng nào hai bên biết nhau
tong tỏng, không lo anh trao duyên lầm
«người đẹp mã», sang sông rồi «con sáo sỗ
lòng bay xa».
Vợ anh tái gía với ông Mỹ gìa, chị học
được lối đối xử lịch lãm của
người phương tây, vợ chồng cũ không rủ
cũng nên trở thành «bạn hiền» để chung sức
giáo dục các con. Hận thù, ghét bỏ, bêu xấu nhau làm gì
để các con bị tổn thương khi phải nghe
những lời chê trách, cha mi, mẹ mi là người ti tiện,
nhỏ mọn, cái gì đã qua cho qua luôn, như thế mới
giữ được sự nể trọng của các con.
Ngày chị Xíu ra mắt bên chồng, ngoài đám bạn của
anh, người nhà khá đông, các con của anh với vợ
cũ, các con riêng của chồng Mỹ bà vợ cũ của
anh, tiếng ta tiếng Mỹ mạnh ai nấy hiểu, chị
Xíu thấy lạ quá, đám cưới của chị mà
khách còn vui hơn cả chị nữa. Tàn tiệc
đôi uyên ương đưa nhau về nhà nghỉ
ngơi, chuyện động phòng tính sau, hôm nay cô dâu chú rể
ê càng đuối sức vì nhảy đầm quá trớn.
Tuần trăng mật anh đưa chị lên sòng bạc
Las Vegas thử vận, chị đùa, vận chị bây giờ
neo vào anh rồi, đỏ đen gì đành chịu, anh hí hửng,
chơi xả láng, tình mình đỏ rực nên có đen bạc
cũng dễ hiểu. Chắc chắn là họ thua nhà sòng,
trước mua vui sau anh lấy lại cái vai vế đại
ca của đám con nít ngày xưa, trông anh liếng thoắng
như trai trẻ, hình như đàn ông muôn đời vẫn
là một đứa trẻ thích được nâng niu.
Tuần trăng rồi cũng qua, mật đọng lại
đâu đó, chưa lộ hình nhưng bàn bạc trong những
ngày đầu tập tễnh vào vai «việt kiều» bên
quê chồng. Tuy nhỏ hơn anh gần mười tuổi
trông chị xấp xỉ tuổi anh, mấy người
thầm tiếc hộ anh, rinh «bà gìa» còn đòi ra mắt
thiên hạ, sao người ta kỳ thị chi lạ,
trước sau gì chị sẽ sánh bước với anh,
phải là người mẫu chân dài mới đủ
tư cách làm vợ việt kiều sao.
Anh dẫn chị ra mắt bạn bè, chị ngoan ngoãn nghe
các bà, các chị bên ni giáo huấn, «ma mới»
nghe «ma cũ» lên lớp vài buổi, tự nhiên được
trainning miễn phí lại được tiếng «ngoan». Chị phục các bà các cô bên này, vừa đi học
vừa đi làm, có khi cày hai jobs nhà cửa vẫn
tươm tất, nghĩ lại dân Sàigòn nhàn và sướng
chán.
Khách ra về hài lòng khen, vợ anh Liêm «biết điều»,
đại ca nghĩ khác, anh hỏi, sao cô giáo vào vai học
trò hay vậy ? Chị thành thật, mình
đến sau nghe người đến trước chỉ
dẫn, tranh thủ như thế không hay sao, đâu phải
ai cũng tốt bụng chỉ bảo mình như các chị,
họ còn rủ em đi shopping nữa đó.
Một năm sau, shopping, chợ ta, chợ mỹ, lái xe, lớp
ESL, cái job đầu tiên làm việc với đồng
hương, cuộc sát hạch «hội nhập» chị
vượt qua không khó, kẹt cái góc Sài Thành của chị
chưa phai, cái mảng từ ngữ chia duyên rẽ thúy giữa
chị với đồng hương chưa tàn lụi.
«Gọi điện báo anh, chị tăng ca đột xuất,
công việc hơi bị nhiều, chị phản ánh với
cấp trên», anh phát rét nghe chị nói «tiếng việt XHCN»,
«ngoại ngữ» này anh tạm gọi là «ViệtSL» thay cho
ESL. Để không bất đồng ngôn ngữ với chị,
anh muợn khẩu hiệu «vui duyên mới nhưng không quên
nhiệm vụ», anh can chị, quên giùm cái đuôi XHCN bên kia và chuyễn hệ dùng ngôn ngữ địa
phương cho anh và đồng hương được
nhờ. Vẫn là tiếng việt, nhưng Việt Nam Cộng
Hòa tiếng nói của người Việt tự do, không cần
«tranh thủ, lấy ngắn nuôi dài, bán giá trong giá ngoài, khuôn
mặt hình sự, khủng bố tinh thần...”
Có đêm hai người trăn trở
khó ngủ, họ thì thầm, Xíu của anh chưa từ bỏ
góc việt cộng, bạn bè e ngại cho anh phải chung sống
với em. Chị giật mình, có chuyện gì không ổn, em
làm sao mà bạn anh lo lắng ? Cô giáo
ơi, HO mà chung sống với «cán cộng», có đáng ngại
không nào ?
Chị chợt hiểu, người ta hiểu lầm chị
qua ngôn ngữ tuy không bất đồng, nhưng lại dị
biệt, tiếng việt bên nhà chuyễn gieng... «trí tuệ»
đến độ đồng hương có người
ngẫn ngơ khi chị trầm trồ khen «thật là
trình độ», tưởng cái gì trình độ, chị
khen cái lò nướng thịt, nướng cá đa năng
bằng điện, họ nhìn chị mỉm cười
chế diễu. Chị cảm thấy hụt hẫng, bị
kỳ thị, cũng không trách được, họ
đã vứt bỏ tất cả, suýt mất mạng để
«lập quốc» ở đây, tự dưng chị lù lù dẫn
xác qua, thả cái chùm từ ngữ «không giống ai» vào thành
trì tự do của họ, bảo sao họ không khó chịu.
Thôi thì, «đồng hương ơi thương lấy
đồng bào, tuy là mới đến nhưng dân Cộng
Hòa», các vị mới đến cũng xin thương giùm
các bác đã đi tù cộng sản, đừng bắt họ
quay về quá khứ nghiệt ngã với ngôn từ của
xã hội áp bức bên kia, cái gì của «đảng» hãy trả
lại cho «đảng», xứ Mỹ không cần những
thứ đó.
Chị không ngờ chị bị «viêm não» nặng, viêm kinh
niên câu chữ đặc trưng cộng sản, chỉ
khi ra khỏi VN chị mới đoạn tuyệt với tiếng
việt gốc vô sản lỗi thời. May
là chị chỉ nhiễm chữ, chị chưa hề
thích ứng cuộc sống mà mọi ngã đường tiến
thân đều phải đi cửa hậu, hoặc phải
qua ngõ hẹp có «tiền bác sáng đời ta», nói vậy
không phải ai ở bên nhà cũng xấu, nhưng tìm
được người đạo đức, tự
trọng không dễ chút nào.
Vì chị thuộc loại người không dễ tìm trong
cái xã hội bát nháo bên kia, nên anh đã chọn chị, vì khi
anh đề nghị cưới chị, chị rất ngại,
làm việt kiều ai không thích, nhưng sống ra sao mới
đáng nói, những câu hỏi chị đưa ra làm anh ngạc
nhiên quá, sao Xíu nói thầm yêu anh, bây giờ người ta
cưới lại làm gía.
Chị nhỏ nhẹ, hồi trẻ yêu cuồng, yêu ẩu,
giờ gìa chát, toan tính nhiều hơn yêu, tính toán đây là
lượng sức mình chứ không phải tính tiền
dollar đâu, không biết mình đủ can đảm làm lại
từ đầu ở tuổi này không.
Anh trấn an, tưởng gì, dân ở rừng
với việt cộng như Xíu, câu này do em nói đấy
nhé, đi đâu mà không sống được.
Gậy ông đập lưng ông đau điếng,
nhưng điều nghi ngại của chị cũng không
vô cớ, xứ Mỹ, thiên đàng đầy mộng mị
sao lại không sống được, chỉ tại chị
bị nhiễm từ ngữ cán cộng nhiều quá, phải
có thời gian để chị tái nhập chữ nghĩa
Việt Nam Cộng Hòa.
Ngoài ra cuộc sống mới với anh tuy thân mà lạ, chị
lo lắng, không biết mình đủ kiên nhẫn chịu
đựng tính bốc đồng của anh, tuy có nể
phục anh, nhưng cuộc đời không êm ả như
mặt nước hồ thu, nhất là ở
tuổi này, ai chả có tật.
Cái tật lớn của anh là không bao giờ
chịu thua đàn bà, đến giờ này anh vẫn ấm
ức ông tổ loài người đã mê mệt cái bà Eva
đưa lời đuờng mật nên bọn đàn ông mới
mang cục nghẹn, và anh thề không chùm bước.
Cũng tại lời thề đó mà vợ cũ của
anh đã ra đi, rút kinh nghiệm đau thương kia chị
Xíu thất kinh hồn vía, chị bèn thề sống thề
chết «chịu thua anh» cho chắc ăn. Anh sướng
mê tơi, hỏi gặn chị, thiệt không, cô giáo «mất
dạy» hồi nào mà bữa nay chịu bị bắt nạt
dễ vậy, chị cười tình, thỏ thẻ, xuất
gía tòng phu mà lị, thỉnh thoảng chịu lép xem anh «khè
lửa» ra sao.
Thì ra, Xíu của anh chả hiền tí nào, mà lém đấy,
không sao, đại ca dư sức ra chiêu cho Xíu nễ, chị
vuốt đuôi, em chờ bao nhiêu năm nay để xem anh
trổ tài đấy, đại ca của em. Nói thế thôi, anh giờ này không còn háo thắng
như thời trẻ, về Sàigòn «vớt» em gái hậu
phương hiền ngoan hủ hỉ tuổi gìa đủ
rồi.
Ở tuổi senior làm cái gì cũng phiên phiến, ăn chỉ để thưởng thức
chứ không cần no, rượu thuốc lá, đàn bà còn
khả năng sử dụng, dại gì không hưởng
phí đời. Chỉ có yêu là anh không phiên phiến
mà yêu hết mình, yêu mãnh liệt như để bù lại
đời trai thời loạn anh chưa có mảnh tình vắt
vai để hẹn hò những ngày xả trại.
Cũng tội cho các ông về Sàigòn cưới vợ, vợ
trẻ đẹp cũng có cái gía của nó, ra đường
thiên hạ trầm trồ, nhưng về nhà có khi «đôi
ngã chia ly», em đáng tuổi con cháu, nhõng nhẽo như trẻ
thơ, anh chạy theo hết hơi, huyết áp vọt trên
mức báo động sức lực còn đâu mà làm ăn.
Tâm tư tình cảm trồi sụt theo sự đồng cảm
của hai bên, hên gặp em gái biết điều chịu
khó tìm hiểu thế hệ của anh có «con đường
Duy Tân cây dài bóng mát» coi như rút ngắn giai đoạn
«thích ứng» và đôi ta sẽ cùng chung lối đến
cuối đời.
Xui gặp phải em gái lứa «cháu ngoan bác hồ» em nghêu
ngao bài «tiền bác sáng đời ta», «hết rau rồi em
có lấy măng không», anh buồn thúi ruột, âm nhạc thời
oai hùng các anh lính chiến bị «nhạc cộng» hạ sát
không thương tiếc. Ra đường em lý lắc
ăn diện kiểu «hip hop», anh được lên chức
«cha» cô vợ trẻ, đau đứt ruột, mặc kệ
tối nay anh gỡ gạc một cú, không giữ được
vía nàng thì ôm cứng lấy người, ít ra giữ người
mới qua, kẻo mai này đủ lông em vỗ cánh bay xa,
coi như nghìn trùng xa cách.
Các bác cưới vợ trẻ hơn mình vài thập niên
coi như trúng số độc đắc nếu bác gái có
«thẻ xanh» dằn bóp mà vẫn vui mộng chiều xuân với
bác trai, còn nếu bác gái ôm green card đi luôn, kể như
bác trai bị quịt một cú để đời,
nhưng nếu còn sức ta về Sàigòn làm «hiệp hai».
Thấy các «trưởng niên» vất vả với mối
tình son trẻ, anh Liêm chọn Xíu cho chắc ăn, «gìa chát»
như chị nên họ mới có cớ nhắc đến
kỷ niệm những năm bảy mươi, cái thời
«yé yé» của các anh, mấy em trẻ chưa ra đời lấy
gì chia sẻ với anh chồng gìa. Phong trào các bác về
Sàigòn lấy vợ nhỏ hơn chục tuổi đang thịnh
hành, nàng mấp mé «hết hạng trăng hoa», bỗng có việt
kiều cưới, trúng số độc đắc hệ
số bình phương, bảo đãm nàng sẽ thề suốt
đời nhớ ơn anh việt kiều.
Cưới vợ trẻ được tiếng «bảnh»,
nhưng hậu trường chưa biết ra sao, liệu
sức mà o bế cô em bé bỏng, sơ hở bị «phổng
tay trên» như chơi, khi nào cô em giận dỗi thì tình mình
lại lắm chông gai, một mai chia tay hổng chừng,
đã thế có kẻ ác mồm gọi vợ trẻ của
anh là «con gái» ngọt sớt.
Chiều nay anh với Xíu đi xem ca nhạc, tối đến
gối đầu trên cánh tay anh, Xíu thủ thỉ, hồi
chiều Trung Chỉnh Hoàng Oanh hát bài «Chuyến đi về
sáng» tình ơi là tình, vợ của BS Chỉnh có khi nào ghen với
mấy cô ca sĩ không anh, không chờ anh trả lời, Xíu
tiếp, ghen làm gì cho mệt, bây giờ BS sổ sữa tròn
ú đâu còn đẹp và oai như lúc trẻ.
Anh nheo mắt nhìn Xíu, bắt tại trận nhe, mấy bà cũng
mê đàn ông đẹp trai vậy mà lúc nào cũng lên án đàn ông mê gái trẻ đẹp, nhưng
anh là đứa ngoại lệ, không thèm mê gái trẻ, yêu bà
gìa, chồng em bản lãnh chưa.
Xíu sung sướng gật đầu, thầm cảm
ơn mối tình muộn của anh đã cho chị cơ hội
yêu và được yêu như mối tình đầu, họ
yêu nhau như để bù lại thời vàng son đã mất.
Ai dám bảo gìa không còn lãng mạn, tình yêu làm
gì có tuổi, có chăng người gìa yêu nhau nhẹ nhàng
êm đềm đến khó nhận diện. Khi các cụ
đã yêu, coi như bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông của
nhân gian không chen chân nỗi với mùa yêu
của họ, chuyến này là yêu đến thiên thu, tình chỉ
đẹp khi còn dang dở là tình của bọn trẻ,
người lớn yêu nhau chỉ có một lần nữa...
mà thôi.
Đoàn Thị
|